Thăm dò ý kiến

Anh/chị quan tâm vấn đề nào nhất trong sinh hoạt khoa học lần tới ?

 Ca lâm sàng viêm gan B
 Ca lâm sàng viêm gan C
 Viêm gan B ở phụ nữ độ tuổi sinh sản
 Cập nhật điều trị viêm gan C
 Cập nhật điều trị viêm gan B
 Cập nhật chẩn đoán và điều trị U gan
 

Video

Thống kê

Quảng cáo

Box hình ảnh

  • Hội nghị 25-10-2020
  • Hội nghị 25-10-2020
  • Hội nghị khoa học 04-04-2021
  • HN 2023
  • HN 21-11-2021-01

Liên kết

Ứng dụng chỉ số FIB-4 trong chẩn đoán xơ hóa gan

ThS.BS Lê Đình Vĩnh Phúc, TS.BS Phạm Thị Thu Thủy

TỔNG QUAN VỀ ỨNG DỤNG CHỈ SỐ FIB-4

TRONG CHẨN ĐOÁN XƠ HÓA GAN

ThS.BS Lê Đình Vĩnh Phúc, TS.BS Phạm Thị Thu Thủy

Trung tâm Y khoa MEDIC TP HCM

 

Hình minh họa tiến trình xơ hóa gan

 

CƠ SỞ LÝ LUẬN:

Tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán xơ hóa gan là đánh giá tổn thương mô học trên mẫu sinh thiết gan (liver biopsy). Tuy nhiên, sinh thiết gan có một số hạn chế quan trọng, đó là kỹ thuật xâm lấn gây đau đớn và có biến chứng, tính sẵn có ở các cơ sở y tế thấp, người bệnh chi trả cao, khả năng chấp nhận của người bệnh đối với kỹ thuật thấp, tính lặp lại kém, kết quả có sự khác nhau giữa những chuyên gia đọc và cuối cùng là lỗi khi lấy mẫu sinh thiết gây ra khoảng 24% âm tính giả [3], [4].

Nghiên cứu Apricot là một nghiên cứu thử nghiệm với mục tiêu đánh giá hiệu quả của peg-interferonribavirin ở bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan siêu vi C và HIV được công bố vào năm 2004 [8]. Xuất phát từ cơ sở dữ liệu của nghiên cứu này, bằng kỹ thuật phân tích hồi qui đa biến (multivariate logistic regression analysis), trên cơ sở nghiên cứu hồi cứu 832 bệnh nhân sinh thiết gan, mức độ xơ hóa gan đánh giá dựa vào chỉ số Ishak, nhóm tác giả Sterling và cộng sự đã đề xuất chỉ số FIB-4 đơn giản để đánh giá xơ hóa gan. Chỉ số FIB-4 được tính toán dựa vào 4 biến số là tuổi của bệnh nhân, aspartate aminotransferase (AST), alanine aminotransferase (ALT) và tiểu cầu. Công thức tính như sau:

FIB-4 = [Tuổi (năm) x AST (IU/L)] / [Tiểu cầu (109/L) x ALT1/2 (IU/L)]

Với công thức tính như trên, các tác giả đã chứng minh ở điểm cắt (cut-off) FIB-4 <1,45 có thể phân biệt chính xác giữa giai đoạn từ không xơ hóa đến xơ hóa trung bình (Ishak 0-3) với giai đoạn xơ hóa bắc cầu (Ishak 4-5) và ở điểm cắt FIB-4 >3,25 có thể phân biệt chính xác giữa giai đoạn từ không xơ hóa đến xơ hóa trung bình (Ishak 0-3) với giai đoạn xơ gan (Ishak 6). Diện tích dưới đường cong ROC trong chẩn đoán phân biệt giữa giai đoạn Ishak (0-3) và Ishak (4-6) là 0,765. Ở điểm cắt FIB-4 <1,45 giá trị tiên đoán âm loại trừ xơ hóa nặng (Ishak 4-6) là 90% với độ nhạy 70%. Ở điểm cắt FIB-4 >3,25 giá trị tiên đoán dương 65% với độ đặc hiệu cao tới 97% [7]. Điều này có nghĩa là chỉ số FIB-4 phân loại xơ hóa gan tốt khi FIB-4 nằm ngoài khoảng giá trị từ 1,45 - 3,25.

Các phương tiện không xâm lấn đặc biệt là dấu ấn sinh hóa (FibroTest) hoặc đo độ đàn hồi gan (elastometry) ngày càng phát triển mạnh mẽ thay thế sinh thiết trong chẩn đoán xơ hóa gan. Các thiết bị không xâm lấn này có giá trị tiên đoán dương tốt trong chẩn đoán xơ hóa gan mức độ từ trung bình đến nặng [6], [9]. Ưu điểm của chúng là đơn giản, bác sĩ dễ thực hiện, người bệnh ít tốn kém và có thể thực hiện lặp lại nhiều lần trên bệnh nhân. Nhược điểm của chúng là tính sẵn có, chỉ có thể trang bị ở các cơ sở y tế lớn, chuyên khoa sâu.

Chỉ số FIB-4 có thể ứng dụng có giá trị trong một số tình huống. Đầu tiên là FIB-4 dễ dàng sử dụng, tính toán đơn giản, nhanh chóng, không đòi hỏi phải tiêu chuẩn hóa. Thứ hai là kết quả có ngay trong lần thăm khám bệnh nhân. Thứ ba là ít tốn kém, không cần đầu tư thêm chi phí cho hệ thống máy móc xét nghiệm, các thông số trong công thức tính FIB-4 đã có sẵn trong xét nghiệm thường qui đánh giá bệnh gan. Có thể nói, chỉ số FIB-4 ứng dụng phù hợp trong hoàn cảnh điều kiện kinh tế của nước ta từ cơ sở y tế tuyến huyện trở lên.

 

Đọc và download toàn bộ bài viết tại đây